- Francois de La
Rochefoucald
Lần đầu tiên tôi thấy con Khói là khi nó đang ở trong đống lửa! Một
lần cùng ba đứa con nhỏ của mình đến bãi rác nằm ngoài thị trấn để đốt rác như
thường lệ, tôi phát hiện nó bị vùi trong một đống gạch đang cháy âm ỉ. Khi ấy,
nó là một chú mèo nhỏ xíu, toàn thân năm đen như than đang cố hết sức bình sinh
bò về phía chúng tôi.
- Con sẽ cứu nó! - Thằng bé Scott con tôi la lên.
Khi Scott bước tới bọc con mèo cẩn thận trong chiếc khăn rằn của
tôi, tôi tự hỏi tại sao con mèo không kêu la khi bị chạm đến những chỗ đau như
vậy. Sau này, chúng tôi mới phát hiện lưõi của nó cũng bị bỏng nặng.
Chúng tôi mang con mèo về nông trại. Trong lúc bốn mẹ con đang chăm
sóc cho nó thì chồng tôi, Jim, trở về nhà sau một ngày dài sửa hàng rào mệt lử.
Anh chẳng ngạc nhiên gì khi trông thấy nó, vì đây không phải là lần đầu tiên
chúng tôi đón chào Jim về nhà bằng một con thú bị thương. Dù ngoài miệng lúc nào
cũng càu nhàu bực bội nhưng trong lòng Jim cũng không nỡ nhìn thấy chúng đau
đớn. Vì thế, anh thường giúp chúng tôi làm chuồng, lo chỗ nằm, làm rào và thanh
nẹp chân cho những con chồn, thỏ và mấy chú chim bị thương mà chúng tôi đem về.
Tuy nhiên, lần này thì khác. Đây là một con mèo, mà Jim thì chẳng thích mèo tí
nào.
Chẳng những thế, con mèo này lại không bình thường. Trên thân thể
nó, những chỗ đáng lẽ được phủ lông mượt giờ chỉ toàn là vết bỏng. Đôi tai của
nó không còn và chiếc đuôi thì bị cháy đến lộ cả xương. Các dấu chân nhỏ bé có
thể vẫn thường in trên mui những chiếc xe hơi hay xe tải đầy bụi thì nay cũng
không còn đúng hình dạng của chúng nữa. Nó hầu như chẳng còn có nét gì của một
con mèo - ngoài đôi mắt to xanh thẳm cầu xin sự giúp đỡ.
Thế là chúng tôi chữa trị vết thương cho nó cẩn thận. Chúng tôi còn
đặt tên cho nó là Khói để ký niệm lần đầu tìm thấy nó.
Sau ba tuần, chúng tôi có thể bôi thuốc mỡ chữa bỏng cho con Khói,
khiến toàn thân nó trở thành một khối màu xanh lạ kỳ. Đuôi nó thì đã gãy lìa, và
bộ lông mượt mà đầy hãnh diện của loài mèo cũng chẳng còn một sợi nào - nhưng cả
tôi lẫn bọn trẻ đều "ngưỡng mộ" nó.
Nhưng Jim lại không như vậy. Thế nên, Khói cũng chẳng quý anh. Tại
sao ư? Vì anh có thứ dụng cụ mồi ống điếu gồm diêm quẹt và cái đèn khi đốt cháy
bập bùng. Mỗi lần anh đốt chiếc đèn này lên, con Khói lại trở nên hoảng sợ và
quáng quàng bỏ chạy - có lần nó còn làm đổ cả tách cà phê và chiếc đèn của anh
trước khi chạy biến vào ống thông gió trong căn phòng ngủ dự phòng.
- Tại sao mày chẳng để tao yên tí nào thế này? - Jim rên
rỉ.
Tuy vậy càng ngày con Khói càng quen dần với cái ống điếu và chủ
nhân của nó hơn. Nó nằm trên chiếc tràng ký và nhìn trừng trừng vào Jim khi anh
hút ống điếu và phà khói thuốc ra. Một hôm, Jim nhìn tôi cười khúc
khích.
- Cái con mèo chết tiệt này, nó làm anh thấy tội lỗi quá!
Cuối năm đầu tiên, con Khói trông vẫn còn thảm hại, chẳng khác cái
giẻ rách là mấy. Còn thằng Scott nhà tôi lại trở nên nổi tiếng trong đám bạn vì
có một con mèo xấu nhất nước - mà cũng có thể là xấu nhất trần đời.
Dần dần và cũng hết sức lạ lùng, Jim trở thành người mà con Khói
quan tâm nhất. Và chẳng lâu sau, tôi nhận thấy một sự thay đổi ở Jim. Giờ đây,
ít khi anh hút thuốc trong nhà, và vào một tối mùa đông nọ, tôi hết sức ngạc
nhiên khi thấy anh ngồi trên ghế với con mèo nhỏ xấu xí đang nằm cuộn trong lòng
anh. Trước khi tôi kịp lên tiếng thì anh đã lầm bầm, nói cộc lốc như để phần
trần.
- Em biết không, có lẽ nó lạnh, nó không có lông mà.
Nhưng, tôi nhớ lại, cái con Khói này thích cái lạnh lắm mà! Chẳng
phải nó đã ngủ ngay trước ống thông gió và trên sàn lót ván lạnh ngắt đấy
ư?
Có lẽ Jim đã bắt đầu thấy thích con vật kỳ dị này rồi!
Không phải ai cũng đều chia sẻ tình cảm mà chúng tôi dành cho Khói,
nhất là những ngưòl chưa bao giờ trông thấy nó. Lời đồn đại đến tai một nhóm tự
nhận rằng mình là những người bảo vệ thú, và một bữa, một phụ nữ trong nhóm họ
đã đến gõ cửa nhà chúng tôi. Họ nghĩ rằng chính chúng tôi đã bạc đãi con Khói.
Nhưng khi tận mắt trông thấy dáng vẻ "uy nghi" trần trụi của con Khói được phóng
đại gấp 10 lần đang nấp đằng sau bể nuôi cá nhà tôi và đang trừng mắt nhìn vào
vị khách thì bà ta đã thay đổi cách nghĩ và nhanh chóng cáo từ.
Sang năm thứ hai, một điều kỳ diệu xảy ra. Lông con Khói bắt đầu mọc
lại. Những sợi lông trắng bé xíu, mềm mại và đẹp hơn cả lông của các chú gà tơ
dần dần mọc dài hơn biến con mèo bé nhỏ xấu xí của chúng tôi thành một làn khói
mỏng.
Jim ngày càng thích làm bạn với con Khói. Có lúc Jim còn ôm nó theo
khi anh ra ngoài thăm đàn gia súc, ghì sát nó vào chiếc quần vải bông của
anh.
Ngày Khói cùng Jim đi kiếm một con bé bị lạc cũng là ngày nó tròn ba
tuổi. Cuộc lùng kiếm kéo dài trong nhiều giờ liền, và cứ mỗi lần dừng lại và
bước ra khỏi xe phóng mắt tìm kiếm, Jim luôn để cửa xe mở. Bên ngoài là những
cánh đồng nứt nẻ đầy những đám cỏ khô. Xa xa phía chân trời báo hiệu một cơn bão
sắp đến, vậy mà vẫn không thấy dáng con bé đâu. Cảm thấy chán ngán và không chút
suy nghĩ, Jim thò tay vào túi lấy hộp diêm và quẹt lên. Một tia lửa bắn xuống
mặt đất và trong vài giây, cánh đồng bốc cháy.
Lòng rối bòi, Jim chẳng còn tâm trí nào nghĩ đến con mèo. Chỉ sau
khi dập tắt đám cháy và tìm ra con bé, anh mới quay về và chợt nhớ:
- Con Khói đâu rồi! - Jim la lên - Chắc nó đã nhảy ra khỏi xe? Hay
là nó đã về nhà.
Không phải! Chúng tôi đều biết con Khói không bao giờ có thể tìm
đường về nhà từ một nơi cách xa đến hai dặm. Trời bắt đầu đổ mưa khiến sự việc
càng thêm rắc rối. Mưa nặng hạt đến nỗi chúng tôi không thể nào ra ngoài tìm
kiếm nó.
Jim trở nên quẫn trí và tự đổ lỗi cho mình. Chúng tôi bỏ cả ngày hôm
sau để tìm kiếm, vừa mong nó cất tiếng kêu để chúng tôi biết mà tìm đến, vừa
hiểu là nó khó có thể sống sót nếu gặp phải thú dữ. Nhưng rốt cuộc cũng chẳng
ích gì!
Hai tuần sau, vẫn không thấy con Khói về nhà. Chúng tôi e rằng nó đã
chết đâu đó rồi vì khi mùa mưa bắt đầu thì cũng là lúc bầy diều hâu, chó sói và
lũ chó hoang đi kiếm thức ăn.
Sau đó khu vực chúng tôi lại bị một cơn mưa bão lớn chưa từng thấy
ập đến. Nước từ trên trời như trút hết xuống nơi đây. Đến sáng, nước lũ phủ kín
hàng dặm, khiến cho muông thú và trâu bò phải trồi dạt đến các đảo nằm rải rác ở
các nơi cao hơn. Những con thỏ, gấu trúc, sáo và chuột sa mạc sợ hãi chờ nước
rút bớt trong khi Jim và Scott bì bõm lội nước đưa đàn bê khát sữa về với mẹ của
chúng an toàn.
Trong lúc tôi cùng các con gái đang chăm chú quan sát thì đột nhiên
Jaymee la lên:
- Ba ơi! Có một con thỏ nhỏ xíu tội nghiệp nằm kia kìa. Ba cứu nó
được không?
Jim lội đến chỗ con vật nằm, khi đưa tay ra định bế sinh vật bé nhỏ
ấy lên, anh bỗng giật bắn mình lùi lại như thể đang hoảng sợ. Anh la
lên:
- Không thể tin nổi. Chính là con Khói! - Giọng anh vỡ ra - Ôi! Con
Khói bé bỏng tội nghiệp!
Mắt tôi ứa lệ khi con mèo bé nhỏ thảm hại từ từ bò vào đôi tay dang
rộng của Jim, người mà nó đã mỗi lúc mỗi dành nhiều tình cảm quý mến hơn. Anh ôm
chặt cơ thể đang run rẩy của nó vào ngực, thủ thỉ những lời êm ái rồi nhẹ nhàng
lau sạch bùn trên mặt nó. Suốt thời gian đó, con mèo dán chặt đôi mắt xanh vào
anh với sự cảm thông không thành lời. Jim đã được tha thứ.
Khói lại về nhà. Nhìn nó ngoan ngoãn để chúng tôi chăm sóc, trong
lòng chúng tôi thấy vui hơn vì nó dường như đã khỏe lên.
Nhưng con Khói chưa bao giờ thật sự khỏe mạnh. Một buổi sáng khi nó
vừa tròn bốn tuổi, chúng tôi thấy nó nằm rũ trong chiếc ghế của Jim. Tim nó đã
ngừng đập.
Khi tôi bọc thân thể nhỏ xíu ấy trong chiếc khăn quàng cổ màu đỏ của
Jim và đặt nó vào chiếc hộp đựng giày của lũ trẻ, tôi nghĩ về nhiều thứ mà chú
mèo yêu quý đã dạy chúng tôi: lòng tin cậy, sự thương yêu và tinh thần đấu tranh
với những điều lạ thường dù tất cả mọi người xung quanh cho rằng bạn không thể
thắng. Nó nhắc nhở chúng tôi rằng không phải bề ngoài - mà chính những gì nằm
sâu trong trái tim chúng ta - mới là điều đáng quý.